Chuyện kể Quan Vân Trường


Truyện Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung, dịch giả Phan Kế Bính chuyển ngữ từ tiếng Trung, hồi thứ bảy mươi nhăm có đoạn:

Quan Vân Trường cạo xương chữa thuốc,


Lã Tử Minh áo trắng sang đò.


Đây là một đoạn văn tuyệt tác miêu tả thần y Hoa Đà trổ tài chữa bệnh cho Quan Công. Vốn là trước đó, trong một trận giao tranh với quân Tào, Quan tướng quân không may bị một mũi tên có thuốc độc bắn trúng cánh tay phải. Khi rút mũi tên ra, đầu mũi tên có thuốc độc, đã ngấm vào xương, cánh tay sưng lên xám ngắt không cử động được.


Thần y Hoa Đà sau khi bắt bệnh cho Quan Công liền bảo:


- Tôi đã có phép chữa, nhưng phải tìm một chỗ yên tĩnh, chôn một cái cột, trên cột đóng một vài cái vòng sắt, rồi ngài xâu cánh tay vào cái vòng ấy, lấy dây buộc chặt lại và đem chăn trùm kín đầu đi để tôi dùng dao nhọn rạch chỗ thịt ấy tới xương, cạo sạch chất độc, rịt thuốc vào và khâu lại. Có thế mới chữa được khỏi ngay nhưng rất đau và sợ hãi lắm.

Quan Công cười, nói rằng:

- Tưởng thế nào? Chớ dễ như thế, thì can gì phải dùng đến cột với vòng sắt!

Bèn sai mang rượu ra thết đãi Hoa Đà. Đà uống xong vài chén, Quan Công cứ việc đánh cờ với Mã Lương và giơ cánh tay cho Hoa Đà rạch. Sau đó, Đà cầm dao rạch miếng thịt vào đến tận xương thì thấy chỗ xương đã xanh cả ra. Đà cạo trên xương tiếng kêu ken két, xung quanh ai trông thấy cũng lè lưỡi sởn gai. Quan Công vẫn chăm chú vào ván cờ đang đánh với Mã Lương. Quan Vân Trường đã dồn hết tâm trí vào ván cờ để quên đi nỗi đau đớn từ phẫu thuật trên cánh tay mình mà không có thuốc tê. ...

Read more


Thua Cờ Mất Hoa Sơn

Triệu Khuông Dẫn thua cờ mất núi Hoa Sơn ...( sao này Lệnh Hồ Xuân gạt Nhạc Bất Quần lấy tiền đóng thế đi nhậu......). Triệu Khuông Dẫn lúc trẻ đã rất giỏi võ nghệ,tính thông minh, đánh cờ rất cao ít người địch lại , nổi tiếng ở đất BIỆN Lương . Có lần họ Triệu đi ngang wa núi Hoa Sơn thuộc tỉnh Hiệp Tây, trên núi ấy có một cái động tiên gọi là HY Di động .Trong động có một ông tiên tên là Trần Đoàn , đạo hiệu Hy di lão tổ . Sáng hôm đó HYdi lão biết người khách họ Triêu đang ở gần đó nen bảo đệ tử la Trữ Nhương phải xuống chân núi mà đón ân? long. Lúc này họ Triệu đang bị bệnh nên Trữ Nhương way trở về :

HYlão : người ấy bị bệnh phải ko?
Trưa N thưa: đệ tử có gặp môt người mặt đỏ diện mạo tuấn tú là tương cực kỳ cao quý một cách kỳ cục . Sư phụ wả là cao nhân đón việc như thần người ấy đdang nằm mê man bất tỉnh có thể là nhậu xỉn ngủ ngoài trời lạnh nên trúng gió , cần có tiên đơn để cứu hắn.
Hylão cười vui nói : thật là dịp may hiếm có , Triệu Khương Dẫn vì nhậu xỉn mà dến đây , ta phải cứu hắn eheheh laugh.gif .Đồ đệ hãy theo ta

Trữ N đi theo Hylão vào phòng lấy tiên đơn sau một hồi tìm kiếm đã tìm đươc tiên đơn Hylão dặn giò người học trò : cho viên thuôc này vào nước và kiên nhẫn ngồi đợi một giây sau đó đổ vô mỏ hắn , chờ hắn khỏe rùi dẫn lên đây gap ta oke? à con chú ý nè phải làm như dzầy như dzầy..... hiểu chứ ..

Sau khi có tiên đơn Họ triệu đã hoàn toàn khỏe mạnh hơn xưa . Một ngày kia Trữ N rủ Triệu đi lên núi ngắm phong cảnh núi non.......Khuông Dẫn đang đi dạo bỗng nghe tiếng cờ va vào nhau cốp cốp ...vốn là một ngươi mê cờ như vừa đươc ai gãy đúng chỗ ngứa ..nên họ Triêu nhìn wa nhìn lại thì bất ngờ thấy 2 ông lão râu bạc hơn tóc đang wán cờ ... và cất lời : này tiên xin người có thích xem wán cờ ko ... chúng ta cung nhau lại coi để thương thức cái thú thanh nhàn ... và học vài đường lã lướt....

Trữ N noi : vâng sư phự tui cũng là người mê cờ bít đâu ngài sẽ gặp người .< lời này hơi ẩn ý>
Ván cờ đang tới hồi chém giết kịch liệt . Bàn cờ thì bằng đá trắng môt bên cờ đỏ còn bên con lại cờ đen wink.gif , ông già cờ đỏ fé xa diệt tướng dụ quân xa của đối phương ra khỏi vị tí để bình páo wàn tượng.Triệu nghỉ nước cờ này bình thường thui...nhưng bất ngờ thấy ông lão chuẩn bị ăn con xa để đi về tây thiên thì Triêu buột miêng kêu len : chòy vậy mà cũng ko thấy.

Nhờ vậy bên đen thấy đựơc cạm bẩy và tránh nươc đó sau cùng dùng tiệu chiêu của loài nghiêu và win ván cờ.Sắp win mà cuối cùng lại thua ong già kia chung 2 đỉnh vàng 4 số 9999 ..tức hơn người ta bắt Hùm xám mà thua ngươc quỹ đỏ năm 1999 ...ong liền nói mad.gif :
"quan kỳ bất ngữ wả chân quân coi wán cờ độ ko nên chỉ là quân tử

Khán trước đa ngôn thị tiểu nhân Nói nhiều mà ko đền tiền là tiểu nhân
Họ triệu càm thấy ngại .. nên nghĩ mình sẽ chỉ lại để hai bên hòa tiền. Hai người sấp bàn cờ lại và làm thêm môt ván nữa.....sau vài chục nước hai bên đang chiên đấu căng thằng...ong già cờ đỏ sau một thơi gian suy tư ...đã có ý dùng pháo diệt chốt
Triêu lại ngứa miệng : lúc dầu sôi lữa bỏng này sau lai. fí nươc thế .. coi chừng thua thêm 2 vàng nữa bi giờ . Ông già nhìn lai. thì cờ bên kia có nước bay mã bắt bí tương và rình an xe..
Hai ông già nóng máu ...: nói nhìu để làm gì , giỏi vô đây, tao nhường????
Triêu trẻ người háo thắng ỷ mình cờ cao ....nên vui vẽ nhận lời và nói : chỉ sợ lão ko có vàng để chung thui...ehehe
Ông già liền nói: nếu vậy thì tôi giao trước như vậy , đánh một bàn là 50 lượng, đánh xong phải chung cho đủ , chịu thì đánh ta ko rãnh wán an chơi
Triệu Khuông Dẫn :bao nhiêu thì tùy ý, ta mà ko có tiên sao??
Ông lão làm thinh , rùi hai người bắt đầu. Ông lão con` lại ngồi coi. Cờ của ho Triệu ưa thế nhưng cuối cùng lại thua . Khuông Dẫn nói : bàn này wán 100 lượng.. bàn đầu ta chỉ tìm hiểu đối phương thui...

Ông lão tiếp lời : oke 100 lượng cũng ko sao,ta chỉ lo cho chú lại thua nữa thì khổ
hai người sắp lại bàn cờ và bước vào ván thứ 2, Đanh một chúc ông lão lai. thắng theo một ván nữa....Triêu thua 2 ván thì nổi giận mà nghĩ : Hồi ở biện lương thì mình đánh ci72 có tiếng , nếu nay dến đây bị thua ông già này , dẫu có thua hết tiền bạc chăng nói làm chi, e rằng mang tiếng thua ở đây thì bị thiên hạ chê cười .Thôi bàn này biểu ổng wán một trăm 50 lượngmà trừ phức cho rãnh...lỡ thua nữa thi` xù luôn mang tiếng môt lần cho đáng . Nghĩ sau làm vậy :Này ông , tôi đã thua 2 ván . vậy bàn này lên gối wán 150 lượng .Nếu ông an nữa thì tôi xù .. ý lộn tôi sẽ chung đủ ông 300 lương..nha

Ông già cười nói "lâu lâu mới gặp mối thơm , sao mà lapõ từ chối đựoc...nhưng dù sau chúcũng phải chung chứ 2 bàn rùi . Lỡ mà thua nữa rùi ko có tiền chung cho tôi .Chừng đó có đòi e rằng tốn nươc miếng mà ko đựoc gì ...làm mất đoàn kết .
Khuông Dân nghe ông già đó nói vậy thì nổi nóng mặt nổi 2, 3 mụn mụn.. có ý đá cờ bỏ đi nhưng vân muốn làm một ván để lấy lại danh dự : ông đừng nói như thế.dẫu thua bao nhiêu tôi cũng sẽ trả đủ cho ông, chớ nói thế mà mích lòng... nói nhiều để làm gí wán nhanh đi
Ông lão nói 2 lần rùi phải có người làm chứng mới đươc . Ông này vô làm nhân chứng dùng tôi đi nha

Trữ N cung đang đứng gân đó coi kô dám nói chi hết..hai người lại bắt đầu ván thứ 3............Họ Triệu lại thua nữa bèn nói : thui tại hạ có công chuyện phải đi rùi hẹn gặp sau nha , 2 người ở chơi vui vẽ ..
Nhưng ông già tức giận nói : chú thua hết 300 lượng sao lại nói thế .. làm người ai lại làm thế. Như ơ xứ nào người ta sơ chú chứ ơ đây người giỏi nhìu như lá mùa thu..nên chằng ai sợ chú đâu..Nếu chú ko đủ tiền thì lạy ta một cái ta sẽ bỏ wa coi như 300 là tiền ta dzạy cờ miễn phí cho chú mà làm phước vậy.

Khuông Dẫn nghe nói cả giận , muốn dọng vô mỏ ông già nhưng lại nghĩ mình là thanh niên mà đi đanh ông già lỡ mà có đứa nào nhìu chuyện đôn ra ngoài thì xấu cọp chít , nên đanh căm nín nghe ông kia nói.Lúc đó ông già làm trọng tài mơi nói : nêu như em ko đêm theo tiên bạc thì có vật gì dưa co người ta .. đồ nào có giá trị ta sẽ cầm giúp lấy lãi suất thấp thui .Thì đâu có ai Làm gì được chú em đâu nè

Triệu Khuông Dận hoặc Triệu Khuông Dẫn, tự Nguyên Lãng, là Hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc, ở ngôi từ năm 960 đến năm 976. Giai thoại về Triệu Khuông Dẫn thua cờ mất núi Hoa Sơn ...(sau này Lệnh Hồ Xuân gạt Nhạc Bất Quần lấy tiền đóng thế đi nhậu......)


TKDẫn nói : khá khen cho ông già biết làm ăn, tiền bạc đối với tôi ko wan trọng và cái gì ko wan trọng ít khi tôi đêm theo bên người lắm..Tôi có bộ đồ ông có thể cầm giúp chăng..??
Ông già nói :bộ đồ mà chú em đang mặc à thui cho tôi xin .. Chú có nhà cửa hay bất động sản nào khác kô,nếu kô có thì chú chỉ cái gí cũng được coi như tượng trương cho ta đẹp lòng là được ta sẽ trừ đi 300 lương , à cái cây hay cục đá cũng được tùy chú

TKDẫn nghe nói vậy thì cười thầm : người khôn , khôn từ thuở lên 3 , người dại thì già đầu vẫn dzai.....Một cục đá thui à wả là coi thường người ta wá đáng .. cho ông nguyên ngọn núi cho ông sướng một chít ehehehh. Ngĩ sau làm vậy : Néu tôi làm giấy bán trừ nợ hòn núi tây nhạc hoa sơn này cho ông , ông nghĩ sau ...
Ong lão liền nói : đươc , đưoc mà cái gì cũng đươc ngon núi hơi lớn chú em đưng có mà hối tiếc bây giờ đổi ý còn kịp

TKDẫn ông cứ deo giấy bút ra đây, tôi ký cai' rẹst là xong đưng lôi thôi
Ông lão nói: chú cứ câm hòn đá viết vài chữ là được rùi
KDẫn lại cười tiếp

Read more


Tản mạn về cờ tướng

Trung cuộc

Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:
Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân.
Nội kích: đánh từ phía trong.
Kích thẳng vào Tướng.
Chiếu tướng bắt quân.
Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó.
Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi, đường rút của đối phương.
Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương.
Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt.
Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương.
Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân.
Bao vây.
Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu.
Vu hồi: đánh vòng từ phía sau.
Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát.
Quấy nhiễu.
Nước lơ lửng: đi một "nước vô thưởng vô phạt" để nhường nước cho đối phương, khiến đối phương phải đi một nước "tự sát".
Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí.
Vừa đỡ vừa chiếu lại.
Vừa đỡ vừa trả đòn.


Tàn cuộc

Xe chống Sĩ Tượng toàn
Xe Tốt chống Sĩ Tượng toàn
Mã Tốt chống Sĩ Tượng toàn
Đơn Mã chống Tướng
Đơn Tốt bắt Tướng
Đơn Mã thắng Tướng
Đơn Xe thắng song Tượng
Xe và Tốt lụt thắng đơn Xe
Đơn Xe thắng đơn Tướng
Tốt chống Tướng
Tam tử quy biên

Các hình thức chơi cờ tướng khác

Cờ thế

Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng được sau một số nước đi được yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian.

Cờ bỏi

Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ tướng, nhưng quân cờ là những thẻ gỗ sơn son thếp vàng, có cán dài chừng 1 m, tên quân cờ được viết ở hai mặt, cắm vào các ô đã định sẵn trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân cờ để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người có thể cùng xem được.

Cờ người

Đoàn "Cờ người" trước khi bước vào trận đấu. Người đứng đầu tiên là Tướng Bà, sau đó là 1 quân Tốt, tiếp theo là 2 quân Sỹ... Đoàn "Cờ người" trước khi bước vào trận đấu. Người đứng đầu tiên là Tướng Bà, sau đó là 1 quân Tốt, tiếp theo là 2 quân Sỹ... Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa. Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng trống, đàn, phách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng, chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn, cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở "cắc...tom tom". Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm. Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân.

Cờ tưởng

Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ thật. Kiểu chơi này thường đòi hỏi người chơi phải có trình độ cao, nhớ được các nước đi, thế cờ hiện tại.

Cờ một thế trận

Cờ một thế trận là trong ván cờ, chỉ được chơi một thế trận như: Thuận Pháo,... Các ván cờ thường khởi đầu với những chiêu thức cũ, nhưng sau đó là rất nhiều phương án khác đa dạng độc đáo, biến hoá kỳ ảo. Giải cờ này hay được tổ chức tại Trung Quốc.

Cờ chấp

Khi bắt đầu, một người chơi chấp bên kia bằng cách bỏ đi một vài quân cờ. Kiểu chơi này được chơi nhiều trong dân gian khi trình độ hai bên chênh lệnh nhiều. Trong các cuộc tỷ thí chính thức có chấp thì người ta hay chấp một Mã.

Cờ úp

Được chơi nhiều gần đây ở Việt Nam. Các quân cờ trừ tướng được che khuất bằng cách dùng một cái nắp nhựa úp lên. Kiểu chơi này đòi hỏi người chơi phải nhớ quân tốt hơn. Một biến thể nữa là xáo trộn các quân và đặt chúng ở vị trí ngẫu nhiên nhưng có lẽ kiểu chơi này đã đi quá xa và không nên coi là cờ tướng.

Gửi các Bác thích học chơi cờ

Thành ngữ trong cờ tướng

Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách.
Cờ tàn, Pháo hoàn.
Khuyết Sỹ kỵ song Xa.
Khuyết Tượng kỵ Pháo.
Khuyết Sĩ kỵ Mã.
Nhất Sỹ chòi góc, cóc sợ Mã công.
Tốt nhập cung Tướng khốn cùng.
Mã nhập cung Tướng khốn cùng (hay Mã nhập cung Tướng lùng bùng).
Xe mười Pháo bảy Mã ba.
Nhất Xe sát vạn.
Cờ bí dí Tốt.
Nhất chiếu nhất cách (đi một nước khác sau mỗi lần chiếu, cầu hòa)
Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công.
Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực (một Tốt sang sông có sức mạnh bằng nửa Xe).
Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc.
Pháo đầu, Mã đội, xe lên hà.
Pháo giáp Mã
Mất xe không bằng què Tượng
Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy...
Hạ thủ bất hoàn. Các câu đối và thơ về cờ tướng

Câu đối:

Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấn
So Cầm Thi Họa thêm bàn Cờ nữa mới thanh cao.

Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệt
Bình xa, Hoành xa chiến lược cao xa.

Thơ:

...Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tấn công

Lạc nước hai Xe đành bỏ phí
Gặp thời một Tốt cũng thành công...

Tấn công phòng thủ không sơ hở
Đại tướng anh hùng mới xứng danh

(Trích bài "Học đánh cờ" trong tập "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh)

Thắt lưng hoa lý mắt câu huyền
Sỹ Tượng gươm trần gác mỗi bên
Em làm bà Tướng lòng anh đó
Anh nguyện xin làm phận Tốt đen.

(Bài "Hội cờ người" của N.V.C)

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên

(Thơ Hồ Xuân Hương)

Kỷ lục cờ tướng

Chơi cờ tưởng: Ngày 25 tháng 2 năm 1995, Đại kỳ sư Trung Quốc Liễu Đại Hoa đã bịt mắt, đánh cờ tưởng (tức là đánh cờ tướng nhưng không cần nhìn bàn cờ) với 19 kỳ thủ có đẳng cấp. Kết quả, sau 7 giờ 20 phút, ông đã thắng 9, hoà 8 và chỉ thua 2 ván.

Chơi cờ đồng loạt: Ngày 30 tháng 5 năm 1996, Từ Thiên Hồng, danh thủ cờ tướng Trung Quốc, một mình đấu cùng lúc với 100 đối thủ. Cuộc đấu cờ dài 9 giờ 28 phút với kết quả: ông thắng 83 ván, hoà 16 ván và thua 1 ván.

Các giai thoại về cờ tướng

Giai thoại "Thua cờ mất Hoa Sơn": Hoa Sơn là một quả núi cao ở Trung Quốc. Ván cờ được chơi giữa một bên là Triệu Khuông Dẫn và một bên là Hy di Đạo sỹ Trần Đoàn.

Giai thoại "Chuyện ở Bích Mai Trang": Bích Mai Trang là ngôi biệt thự ở bên bờ con sông đào phía bắc kinh thành Huế xưa. Ván cờ được chơi giữa một bên là cụ Trịnh, chủ ngôi biệt thự trên, một lão kỳ thủ trứ danh với Trà Hương, một kỳ thủ nữ trẻ.

Giai thoại "Chu Tấn Trinh đánh cờ": Chu Tấn Trinh là một kỳ thủ trứ danh người Trung Quốc, ông đã chơi một ván cờ nổi tiếng với vị sư trụ trì ngôi chùa cổ.

Giai thoại "Ván cờ giữa Cao Bá Quát và vua Tự Đức".


Một số "khẩu quyết"

1. Đương đầu pháo quyết

Khởi Pháo tại trung cung
Tỷ chư cuộc giảo hùng
Mã thường thủ trung Tốt
Sĩ thượng Tướng phòng không.
Tượng yên Xa tương hộ,
Tốt nghi tả, hữu công.
Nhược tương Pháo lâm địch
Mã xuất độ hà tùng

Tạm dịch:

Bí quyết đánh Pháo đầu

Trước tiên Pháo vào cung
So ra mạnh vô cùng
Mã luôn giữ Tốt giữa,
Sĩ lên che Tướng trung.
Tượng cần Xe yểm trợ
Tốt hai cánh nên bung.
Nếu đem Pháo lâm trận
Mã sang sông theo cùng.

2. Sĩ giác Pháo quyết

Pháo hướng Sĩ giác an
Xa hành nhị lộ tiền
Quá hà xa pháo thượng
Pháo hưu mã tương liên
Xe tiên đổ sĩ tượng
Mã tướng pháo hướng tiền
Địch nhân khinh bất thủ
Tróc tướng hữu hà nan

Tạm dịch:

Bí quyết trận Sĩ giác Pháo

Góc Sĩ, Pháo nằm yên
Hai Xe xuất trận tiền
Quá hà Xe Pháo thượng
Pháo và Mã kết liên
Xe đánh tung Sĩ Tượng
Mã Pháo cùng xông lên
Địch quân không lo thủ
Tướng tất bị bắt liền

Cái "chiêu Sĩ giác Pháo quyết" này chuyên để phá những kỳ thủ, tức là ham công lơ là thủ.

3. Phi Pháo quyết

Pháo khởi biên tái thượng
Phiên tốt thế như phi
Hoàng tịch đương thủ diệu
Xung tiền lạc giác nghi
Thừa hư sĩ khả đắc
Hữu khích Tượng tiên đổ
Hiệp phụ tu xa lực
Tung hoành mã dịch kỳ

Tạm dịch:

Bí quyết chơi phi Pháo

Pháo đánh phá ngoài biên
Nhằm Tốt tiêu diệt liền
Pháo công vào chính diện
Rồi Pháo giác góc biên
Nhằm vào Sĩ chờ sẵn
Thừa cơ diệt Tượng liền
Nhờ vào Xe yểm trợ
Mã tung hoành ngang nhiên

4. Tượng cuộc quyết

Tượng cuộc thế thường an
Trung cung sĩ tất uyên
Xa liên hà thượng lập
Mã tại hậu giá lan
Tượng nhãn thâm phong bế
Trung tâm Tốt mạc tiền
Thế thành phương động Pháo
Phá địch lưỡng bằng biên

Tạm dịch:

Bí quyết trận phi Tượng

Cuộc Tượng thường bình yên
Trung cung Sĩ kết liên
Xe lên hà giữ vững
Mã sau che chắn liền
Đề phòng mắt Tượng tắc
Tốt trung tâm khó lên
Vững thế mới dùng Pháo
Phá địch nhằm hai bên

5. Phá Tượng cuộc quyết

Nhất pháo tại trung cung
Uyên ương mã khứ công
Nhất xa hà thượng lập
Trung tốt hướng tiền xung
Dần xa bế tượng nhãn
Pháo tại hậu tương tùng
Nhất mã hoán nhị tượng
Kỳ thế tất anh hùng

Tạm dịch:

Bí quyết phá trận phi Tượng

Pháo nằm ở trung cung
Mã cả đôi cùng công
Một Xe tuần hà trước
Tốt giữa cứ xung phong
Thọc Xe cản mắt Tượng
Pháo phía sau giáp công
Một Mã đổi hai Tượng
Thế dũng mãnh vô cùng

Read more


Mùa Xuân đàm đạo cờ tướng


(VOV) - Cờ tướng thật sự là thú tao nhã khi người sử dụng nó để thanh lọc tâm hồn chứ không phải chuyện thắng thua
Khá nhiều người đã lầm khi cho rằng cờ tướng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Thực ra cờ tướng ra đời từ loại cờ cổ của người Ấn Độ là Saturanga. Khi đó loại cờ này đi về phía tây và trở thành cờ vua, về phía đông trở thành cờ tướng. Tuy nhiên chính người Trung Quốc đã có công rất lớn trong việc hoàn thiện cờ tướng như ngày nay về hình hài quân cờ cũng như luật chơi.
Theo quan niệm người xưa (và có lẽ ngày nay ít nhiều còn tồn tại), người được coi là Văn võ song toàn thì phải am hiểu tận tường Cầm, kỳ, thi, hoạ. Và trong bốn tiêu chuẩn này thì cờ tướng đứng thứ hai sau Cầm, cho nên “ông ngất ngưỡng” Nguyễn Công Trứ đã viết: “Cầm kỳ thi tửu/ Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay/ Đàn năm cây réo rắt tình tình đây/ Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó”. Thông qua ván cờ, nhìn cách dùng quân của người chơi, chúng ta ít nhiều đoán được phần nào tính cách của họ.
Chẳng hạn: Người nóng nảy thì thích tấn công, đánh nhanh, vội vàng hấp tấp, muốn kết thúc cuộc chơi sớm nên thường sử dụng các chiến lược tấn công. Trong khi đó người kiên nhẫn thì thích thủ hơn công và hay triển khai các chiến lược phòng thủ phản công như Bình phong mã, Đơn đề mã, Pháo giăng; họ chịu khó tính toán, suy nghĩ liên tục, đợi khi đối phương sơ hở mới tấn công. Còn kẻ kiêu ngạo háo thắng thì bộc lộ sự hân hoan ngay khi ăn một quân hay đi một nước có lợi, lấy sự hơn người làm thích thú, luôn cho mình hơn người. Ai linh hoạt thì tính toán nhanh, thông minh xử lý ngay mọi tình huống, nghĩ ra được nhiều thế đánh hay, nước đi của họ lả lướt đẹp mắt, có nhiều sáng tạo. Phường ích kỷ hẹp hòi thì ưa hoãn, bất tài mà lại muốn thắng. Người lơ đễnh thường bỏ sót nước, sơ xuất dễ bị mất quân, dẫn đến thua cuộc, không tập trung tư duy liên tục thậm chí có khi giống như lãng trí đem Xe đi vào chân Ngựa đối phương. Và người trầm tĩnh dù thua quân vẫn từ tốn chống đỡ, tính toán cẩn thận, đánh chậm mà thắng nước, ít nói, không ồn ào, họ đi con cờ nhẹ nhàng không có tiếng động. Có lẽ thật là khổ sở cho những ai gặp phải kẻ hiếu thắng, bởi hắn luôn muốn hơn người khác, càng thua càng muốn đánh đễ gỡ, đến khi nào thắng được một vài ván mới… hả dạ!
Cho nên cờ tướng thật sự là thú tao nhã khi người sử dụng nó để thanh lọc tâm hồn chứ không phải chuyện thắng thua: “Đàn trước gió, rượu bên hoa/ Câu thơ trong tuyết, cuộc cờ dưới hoa” (Khuyết danh – Nhị độ mai), hay: “Cờ tiên, rượu thánh ai đong/ Lưu linh, Đế Thích là phường tri âm” (Nguyễn Gia Thiều). Cũng vì thế mà cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã mong tìm bạn qua bàn cờ: “Đem cờ vua Thích vui tìm bạn/ Mượn chén ông Lưu học tỉnh say”. Người ta còn nhỡ mãi nét thanh tao của ván cờ trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du: "Đôi phen nét vẽ câu thơ/ Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa” "Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.
Không chỉ có giới văn nhân, thi sĩ, vua quan, thần tiên mới hâm mộ cờ tướng mà đến nhân dân lao động chân lấm tay bùn cũng thích thú cờ tướng cho nên dân gian ta có câu ca dao đố cờ: “Hai ông mà chẳng có bà/ Sinh con đẻ cháu đến ba mươi người/ Mười người sinh nở tốt tươi/ Bốn người đi học lại đòi làm quan/ Tám người xa pháo nghênh ngang/ Tám người voi ngựa rộn ràng hơn xưa”. Đó cũng là nét phác hoạ thô sơ mà hoàn mĩ về bàn cơ vậy. Trong lịch sử chơi cờ Việt Nam không thiếu các bậc nữ lưu, danh nhân nữ sĩ như Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm… đều là những tay cao thủ cờ tướng chứ không riêng gì bậc quân tử.
Có thể nói việc khai cuộc thế cờ rất có ý nghĩa trong việc quyết định đến chiến thắng của người chơi. Điều này thật sự sáng tỏ vào đầu thế kỷ XX, khi hầu hết các danh thủ đều khẳng định khai cuộc có tầm quan trọng đặc biệt. Những ai chơi cờ theo ngẫu hứng trong khai cuộc đều không thể chống cự lại những người có học tập, nghiên cứu. Chính từ thực tiễn thi đấu các danh thủ đã rút ra kết luận đó. Nhưng rồi lại có những quan điểm lệch lạc khác khi có một số người lại đề cao quá mức giai đoạn này. Cho nên đã có lúc nổi lên những cuộc tranh lụân xung quanh nhận định, đánh giá lại vị trí và tầm quan trọng của khai cuộc. Và họ thấy rằng cả ba giai đoạn khai - trung - tàn cuộc đều có ý nghĩa và tầm quan trọng nhất định, và các giai đoạn đều có mối quan hệt khăng khít với nhau. Nếu khai cuộc tốt thì có trung cuộc thuận lợi để dẫn đến tàn cuộc thắng lợi. Tuy nhiên trong khai cuộc có khá nhiều cạm bẫy mà người chơi dễ sơ ý mắc phải khi đã Hạ thủ bất hoàn, do đó cần phải nghiên cứu kĩ nó để tránh thất bại không đáng vì “Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời một tốt cũng thành công” (Hồ Chí Minh).
Vì thế nên người Trung Quốc có những quy định khắt khe trong chơi cờ như Chiếu bất quá tam, vì đánh người là hành vi xấu nên đánh tướng đến ba lần thì càng không ra thể thống gì nữa, đánh cờ nếu đã chiếu tướng đến ba lần mà không bắt được tướng thì phải biết xấu hổ và hãy thôi chiếu. Số ba trong cờ tướng còn có ý nghĩa triết lý là: Trời có ba cái quý: Nhật - Nguyệt - Tinh (Mặt trời, Mặt trăng, và Sao). Người có ba cái quý Thiên - Địa - Nhân (Trời, Đất, Người) bao trùm hết cả muôn loài vạn vật. Nếu ba cái quý ấy mà hết thì tất bị hư hoại. Cho nên nếu một quân cờ chiếu tướng đến ba lần mà không bắt được tướng là coi như đã hết thế rồi, nếu tiếp tục nữa là trái với đạo lý. Quân xe không chiếu hậu vì xe tượng trưng cho người Quân tử mà bậc quân tử thì không bao giờ đánh sau lưng người khác hoặc là ví kẻ cùng đường cho nên quân xe không chiếu hậu. Dân gian còn truyền tai nhau câu chuyện của Quan Công qua bốn câu thơ: "Tào Man thua chạy đến Hoa Dung/ Khéo đâu đường hẻm gặp Quan Công/ Chỉ vì tình nghĩa còn ghi tạc/ Nên để rồng ra thoát xuống sông”.
Xung quanh bàn cờ tướng có khá nhiều giai thoại hấp dẫn như Thua cờ mất Hoa Sơn giữa hai kỳ thủ là Triệu Khuông Dẫn và Hy di Đạo sỹ Trần Đoàn; câu chuyện cao thủ trứ danh Chu Tấn Trinh đánh cờ với vị sư trụ trì ngôi chùa cổ ở Trung Quốc. Nước ta cũng có Chuyện ở Bích Mai Trang với ván cờ giữ chủ ngôi biệt thự này với một nữ kỳ thủ trẻ. Ván cờ giữa Cao Bá Quát và vua Tự Đức hay câu chuyện đánh cờ của Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu…
Là môn giải trí mang tính trí tuệ và đượm vẻ tao nhã, không những rèn luyện trí óc cho người chơi cờ mà còn dạy người chơi cờ cách đối nhân xử thế, dạy cho họ biết Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí – Tín. Ngày xuân, ván cờ càng thêm thanh tao: “Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấn/ So Cầm Thi Họa thêm bàn Cờ nữa mới thanh cao - Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệt/ Bình xa, Hoành xa chiến lược cao xa”./.

Read more


Chu Tấn Trinh đánh cờ

Sau đây là một giai thoại về Chu Tấn Trinh (tác giả quyển Quất trung Bí nổi tiếng) mà lão danh thủ Trung Quốc Dương Quan Lân sưu tầm được đăng trong "Quảng Đông tượng kỳ".

Một đêm đã khuya trong ngôi chùa cổ anh mịch vẳng ra tiếng "chát chát". Quả nhiên có hai người còn thức ngồi bên bàn cờ tướng.

Một người mặc cà sa, trạc sáu mươi là trụ trì ngôi chùa cổ, người kia tuổi trẻ, trông rất văn nhã , là danh thủ cờ Tướng Chu Tấn Trinh. Mỗi người đều đặt lên bàn 2 lạng bạc, nhưng mục đích chơi của họ lại khác xa: hoà thượng mong thắng để lấy bạc sung vào quỹ xây lại chùa, còn Chu thì muốn tìm cao thủ để nâng cao trình độ và sáng tạo chiến thuật mới. Tuy nhiên ván đầu sự sáng tạo của Chu chưa hoàn toàn thuần thục nên kém thế ở tàn cục, nhà sư thắng.
Đêm đến, Chu Tấn Trinh không sao ngủ được, vương vấn bởi câu hỏi: vì sao lại thua? Đánh cờ như Chu có tiếng cả một vùng, lại thường xuyên đi sâu lý giải đến tận cùng các thế cờ đã chơi. Chu bèn ngồi dậy, bày lại thế cờ, phân tích kỹ càng các biến, cuối cùng nhận ra nét cờ của đối phương trông thì có vẻ lơ là, mềm yếu nhưng thực tế lai ngắm chứa sát cơ, cực kỳ tinh vi vả chặt chẽ, không dễ phá được. Nhà sư này cũng nghiên cứu cờ không kém gì Chu, hơn nữa lại có công lực cao vì có phép ngồi thiền diệu ảo. Địch thủ quả là ghê gớm. Chu bèn pha trà, bày kỹ trận thế, chuẩn bị cho trận quyết đấu ngày mai.
Hôm sau, khi vào cuộc, sư trụ trì đột nhiên hỏi: "Hôm nay tôi định đặt 100 lạng bạc, xin cho biết ý thí chủ thế nào?" Chu nhận lời ngay. Nhà sư dùng Pháo đầu. Chu dùng Thuận Pháo đương cự và giành chủ động hoàn toàn. Cuối cùng nhà sư phải cầu hoà trong tình thế vô cùng khó khăn. Sau đỏ nhà sư cùng Chu phân tích lại ván cờ và hết lời khen ngợi nước đi cao của Chu. Chu ngắm nhìn cảnh chùa bắt đầu hoang phế, chợt hiểu ra rằng sư đặt tiền lớn và phải trổ hết đòn phép cũng vì mục đích tôn tạo chùa bèn rút ra 300 lạng hiến cho nhà chùa.
Thế mới hay: cờ là môn nghệ thuật, cần khổ công luyện tập, lý luận và thực tế cần kết hợp nhuần nhuyễn. Ngoài trình độ cờ, lại nên phối hợp chiến thuật tâm lý. Mặt khác, thông qua việc chơi cờ có thể kết giao bè bạn, làm những việc thiện, tạo phúc cho xã hội.

Read more


Chuyện ở Bích Mai Trang



Một buổi chiều đầu xuân, chính tại Bích Mai Trang đã diễn ra một trận đấu cờ giữa cụ Cử Trinh, một lão danh kỳ và một nữ kỳ thủ trẻ tuổi mới lên mười, đó là Trà Hương.

Bên bờ con sông đào phía bắc kinh thành Huế xưa có một ngôi biệt thự cổ kính. Mỗi lần đến độ đông cuối xuân về thì trên mái nhà, chung quanh sân như được phủ bằng những tấm thảm màu vàng sáng, trắng xóa, hổng phớt. Đó là màu của ngàn vạn cánh mai vàng, mai trắng, bịch đào rụng xuống.

Vì thế, ngôi biệt thự mới có tên Bích Mai Trang, chủ nhân biệt thự là cụ Cử Trinh.

Cụ Cử đỗ giải nguyên, được bổ làm quan trông coi việc khảo cứu văn sử dưới triều Nguyễn, cụ Cử còn đam mê sáng tác tuồng, viết lời cho những bài ca Huế. Vốn thích an nhàn lại mang tâm hồn nghệ sĩ, cụ xin cáo quan, về hưu lúc tuổi chưa đến năm mươi. Thú vui sớm chiều của cụ là chăm sóc cây cảnh, vẽ tranh thủy mạc và đánh cá. Cụ là một danh kỳ của chốn Kinh thành.

Ở Huế cũng có một người cao cờ, ngang tài ngang sức thường hay đến chơi cờ với cụ Cử, đó là cụ nghè Lê bạn cố tri, đồng khoa, đồng tuế. Cụ Nghè Lê chỉ sinh được một con gái, đặt tên là Giang Hương. Được nuôi dạy và trưởng thành trong một gia đình khoa bảng, Giang Hương ngày càng thông minh, tài sắc. Nàng cũng thích chơi cờ như thân phụ. Vì vậy cụ Nghè Lê hàng ngày bên cạnh việc dạy học, còn dạy cờ cho con gái. Chẳng bao lâu Giang Hương trở thành một kỳ nữ cao cờ hiếm thấy.

Chồng Giang Hương là một học trò nghèo. Sau khi sinh hạ được một bé gái thì Giang Hương chịu cái tang lớn. Người chồng bỗng bị bệnh, qua đời sớm. Thương chồng, thương cha, Giang Hương ở vậy nuôi con và chăm sóc cha già. Bé gái được mẹ và ông ngoại đặt tên là Trà Hương. Những khi ông ngoại và mẹ đánh cờ, bé xà vào, mải mê chăm chú theo dõi đến mãn cuộc, tỏ ra là một năng khiếu bẩm sinh. Đến tuổi lên mười năng khiếu cờ của Trà Hương càng bộc lộ kỳ lạ.

Một buổi chiều đầu xuân, chính tại Bích Mai Trang đã diễn ra một trận đấu cờ giữa cụ Cử Trinh, một lão danh kỳ và một nữ kỳ thủ trẻ tuổi mới lên mười, đó là Trà Hương.

Chuyện kể rằng: Khi cuộc chiến đã vào đoạn cờ tàn, thế trận hai bên diễn ra vô cùng căng thẳng. Tướng của cụ Cử đã lâm vào thế khốn cùng, bị Tốt của đối phương nhập cung. Nhưng thế cờ của Trà Hương cũng nguy kịch không kém bởi cùng một lúc bị cụ Cử đe dọa chiếu hết bằng Xe và Tốt. May thay lúc này đến lượt đi của Trà Hương, nhưng cô bé vẫn cắn ngón tay suy nghĩ, chưa chịu chạm quân.





Người mẹ đứng xem tỏ ra hết sức lo lắng, bỗng xin phép cụ Cử ra về rồi dặn với con gái:
- Con hầu cờ ông đến giờ phút này là giỏi lắm rồi, liệu kết thúc ván cờ đi kẻo ông mệt. Con nhớ là "bốn giờ mạ về vì đã dặn xe lên đón".

Trà Hương mắt long lanh hết nhìn các quân của đối phương lại chú mục vào quân Mã của mình. Bỗng Trà Hương ngước mắt nhìn mẹ:
- Bốn giờ mạ về, có xe lên đón hả mạ?

Một cái gật đầu...

Nghe những lời đối thoại của hai mẹ con, cụ Cử thoáng mỉm cười.

Đến lúc này Trà Hương mới xuống tay, đi Mã chiếu "tiền Mã hậu Pháo". Cụ Cử đưa Pháo vào độn, đỡ nước chiếu tướng.

Trà Hương lại hồi Mã tiếp tục chiếu. Cụ Cử buộc phải rút Pháo ra để khỏi bị chiếu. Cứ thế, Trà Hương hồi Mã chiếu liên tục. Đến nước thứ tư, Trà Hương rút Mã về chiếu, đồng thời lót quân Mã vào cạnh Tướng của mình để rút Xe ra đưa lên chiếu hết đối thủ.

Đến đây cụ Cử buông cờ chịu thua. Người mẹ thở phào nhẹ nhõm, nhìn con mỉm cười sung sướng rồi thưa với cụ Cử:
- Hôm nay ông đã cho cháu được cờ. Từ nay trở đi cho phép cháu được thường xuyên lên hầu cờ để ông chỉ vẽ thêm cho.

Cụ Cử nở một nụ cười kín đáo:
- Hậu sinh khả úy! Bác mừng lắm.

Nói xong cụ nhanh nhẹn bước vào thư phòng và sau đó quay ra tay cầm một phong bì màu hồng có in họa tiết mai vàng, trao cho Trà Hương:
- Ông thưởng tài cháu!

Trà Hương sung sướng, cảm động nhìn mẹ nhưng chưa đám nhận.
Người mẹ vội đỡ lời:
- Con xin ông đi con!

Cụ Cử hai tay dẫn hai mẹ con đến ngồi trước bàn cờ, bấy giờ cụ mới hóm hỉnh nói với người mẹ:
- Trước khi bước vào cuộc cờ, bác cháu ta đã có giao ước với nhau rằng nếu có người nào mách nước cho đối thủ của mình thì sẽ chịu phạt một số tiền tương đương với phần thưởng, có đúng thế không?

Người mẹ vội trả lời:
- Dạ thưa bác, đúng ạ!

Cụ Cử nói tiếp:
- Thế thì "bốn giờ mạ về" có phải là "Mã hồi bốn nước" để chiếu liên tục không nhỉ? Rồi sau đó "xe lên đón" tức là chọc Xe chiếu hết chứ gì?

Đến nước này thì Giang Hương chỉ còn biết xin chịu phạt mà thôi. Nhưng cụ Cừ liền mở phong bì và lấy ra đúng 10 đồng tiền thưởng của cụ (bấy giờ tương đương hai tạ rưỡi gạo).
- Cô chịu phạt chứ?
- Thưa vâng ạ!

Cụ Cử nói tiếp:
- Thế thì được, khỏi phải đưa. Số tiền phạt này bác tặng luôn cho cả hai mẹ con vì ván cờ hay đáng ghi vào sử sách này là một điểm son của cả hai người...

Mặt trời đã xế bóng.

Cụ Cử vui vẻ tiễn đưa cả hai mẹ con ra cổng. Ba ông cháu đi giữa hai hàng cây bạch mai đang nở trắng xóa tỏa hương dìu dịu.

Read more


Cờ Tướng

Cờ tướng (chữ Hán gọi là 象棋, phiên âm Hán Việt là Tượng Kỳ tức "cờ voi"), hay còn gọi là cờ Trung Quốc vì nó được cho là có nguồn gốc Trung Quốc (nhưng theo phương Tây thì nó có nguồn gốc từ Ấn Độ), là một trò chơi trí tuệ dành cho hai người, là loại cờ được chơi phổ biến nhất thế giới cùng với cờ vua.
Tại Trung Quốc, cờ tướng được biết đến từ thế kỷ thứ 4 TCN.

Cờ tướng
Bàn cờ tướng

Bàn cờ tướng lúc bắt đầu với 32 quân
Số người chơi 2
Độ tuổi 6 trở lên
Thời gian chuẩn bị < 2 phút
Thời gian chơi Thông thường ~1 giờ
May rủi ngẫu nhiên Không
Kỹ năng Chiến thuật, Chiến lược

Giới Thiệu
Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Trắng (hay Đỏ), một người cầm quân Đen (hay Xanh lá cây). Mục đích của mỗi người là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí hay bắt Tướng (hay Soái, hoặc Suý) của đối phương và giành thắng lợi.(trung12ly)

Bàn cờ và quân cờ



Tướng, Sỹ và Cửu cung
Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà) nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông (Cửu cung) do 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ hai đường chéo xuyên qua.
Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân Trắng (hoặc Đỏ), phía trên sẽ là quân Đen. Các đường dọc bên Trắng (Đỏ) được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.
Ranh giới giữa hai bên là "sông" (hà). Con sông này có tên là "Sở hà Hán giới" (楚河漢界)- con sông định ra biên giới giữa nước Sởnước Hán. Theo lịch sử Trung Hoa cổ thì khởi nghiệp nhà Hán, Lưu Bang có cuộc chiến liên miên với Sở vương là Hạng Vũ. Cuộc chiến giữa hai bên làm trăm họ lầm than. Hạng Vũ bèn nói với Hán vương: "Mấy năm nay thiên hạ khốn khổ chỉ vì hai chúng ta. Bây giờ quyết một trận sống mái để khỏi làm khổ thiên hạ nữa". Hán vương trả lời: "Ta chỉ đấu trí chứ không thèm đấu sức". Hai bên giáp mặt nhau ở khe Quảng Vũ. Hán vương bèn kể 10 tội lớn của Hạng vương, Hạng vương tức giận dùng nỏ bắn trúng Hán vương, Hán vương đeo tên chạy vào Thành Cao. Hai bên giữ vững đất của mình. Mãi đến khi thấy không còn đủ lực lượng để triệt hạ lẫn nhau, hai bên mới chịu giao ước chia đôi thiên hạ: từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về Đông thuộc Sở. Từ điển tích này, người ta hình dung bàn cờ tướng như hai quốc gia Hán và Sở, coi ranh giới là một dòng sông. Cho tới nay, trên các bàn cờ tướng, ở khoảng "hà" nằm chính giữa, chia đôi bàn cờ, người ta thường ghi "Sở hà Hán giới" (bằng chữ Hán) là vì như vậy.
Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có đủ 32 quân, chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Trắng (Đỏ) và 16 quân Đen, gồm 7 loại quân. Tuy tên quân cờ của mỗi bên có thể viết khác nhau (ký hiệu theo chữ Hán) nhưng giá trị và cách đi quân của chúng lại giống nhau hoàn toàn. Bảy loại quân có ký hiệu và số lượng cho mỗi bên như sau:

Một thanh niên Việt chơi cờ tướng trên một bàn cờ khổng lồ tại một hội chợ Tết
Quân Kí hiệu Số lượng
Tướng Tướng(hoặc Soái) 1
Sỹ Sỹ 2
Tượng Tượng 2
Xe Xe 2
Pháo Pháo 2
Mã 2
Tốt Tốt (hoặc Binh) 5

Lịch sử

Đây loại cờ có từ khoảng thế kỷ 7. Cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga, một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 6 (trước cờ tướng khoảng 200 năm). Chính Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau đó đi về phía tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ tướng. Người Trung Quốc cũng đã thừa nhận điều này.
Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường (sau năm 618), là quân cờ ra đời muộn nhất trong bàn cờ tướng, bởi cho tới thời đó, con người mới tìm ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh.
Tuy nhiên, người Trung Hoa đã cải tiến bàn cờ Saturanga như sau:
  • Họ không dùng "ô", không dùng hai màu để phân biệt ô, mà họ chuyển sang dùng "đường" để đặt quân và đi quân. Chỉ với động tác này, họ đã tăng thêm số điểm đi quân từ 64 của Saturanga lên 81.
  • Đã là hai quốc gia đối kháng thì phải có biên giới rõ ràng, từ đó, họ đặt ra "hà", tức là sông. Khi "hà" xuất hiện trên bàn cờ, 18 điểm đặt quân nữa được tăng thêm. Như vậy, bàn cờ tướng bây giờ đã là 90 điểm so với 64, đó là một sự mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, diện tích chung của bàn cờ hầu như không tăng mấy (chỉ tăng thêm 8 ô) so với số điểm tăng lên tới 1 phần 3.
  • Đã là quốc gia thì phải có cung cấm (宮) và không thể đi khắp bàn cờ như kiểu trò chơi Saturanga được. Thế là "Cửu cung" đã được tạo ra. Điều này thể hiện tư duy phương Đông hết sức rõ ràng.
  • Bàn cờ Saturanga có hình dáng quân cờ là những hình khối, nhưng cờ Tướng thì quân nào trông cũng giống quân nào, chỉ có mỗi tên là khác nhau, lại được viết bằng chữ Hán. Đây có thể là lý do khiến cờ tướng không được phổ biến bằng cờ vua, chỉ cần liếc qua là có thể nhận ra đâu là Vua, đâu là Hoàng hậu, kỵ sỹ, v.v. Tuy nhiên, đối với người Trung Hoa thì việc thuộc mặt cờ này là không có vấn đề gì khó khăn. Có lẽ việc cải tiến này cũng một phần là do điều kiện kinh tế bấy giờ chưa sản xuất được bộ cờ có hình khối phức tạp như cờ vua. Cờ tướng không phải là một trò chơi sang trọng, muốn tạo ra một bàn cờ tướng cực kỳ đơn giản, chỉ cần lấy que vạch xuống nền đất cũng xong, còn cờ vua thì mất công hơn nhiều khi phải tạo ra các ô đen/trắng xen kẽ nhau.
    Gần đây ngày càng có nhiều ý kiến đề nghị cải cách hình dáng các quân cờ tướng và trên thực tế người ta đã đưa những phác thảo của những bộ quân mới bằng hình tượng thay cho chữ viết, nhất là khi cờ tướng được chơi ở những nước không sử dụng tiếng Trung Quốc.
  • Với sự thay đổi bố cục bàn cờ, người Trung Hoa đã phải có những điều chỉnh để lấy lại sự cân bằng cho bàn cờ. Đó chính là những ngoại lệ mà người chơi phải tự nhớ. (Xem thêm phần Mã, Tướng).

Xuất xứ tên gọi

Bàn cờ tướng thật sự là một trận địa sinh động, có tầng có lớp và thật hoàn hảo: đủ các binh chủng trên chiến trường, công có, thủ có, các quân được chia thành ba lớp xen kẽ hài hoà. Lại còn có cả sông, cung cấm. Hình tượng quốc gia hoàn chỉnh, có vua tôi, có 5 binh chủng, có quan ở nhà, quân ra trận v.v..., vừa có ý nghĩa, vừa mang sắc thái phương Đông rõ nét, vì vậy người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý nghĩa cờ hình tượng (theo chữ Hán) chứ không phải vì có quân voi trên bàn cờ .
Cũng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa không có voi, khi tiếp nhận Saturanga thấy trong các quan có quân voi lạ nên người Trung Hoa bèn gọi là "tượng kỳ" để kỷ niệm một loại cờ lạ có con voi. Như thế có người suy ra "tượng kỳ" có nghĩa là cờ voi.
Tại Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là cờ tướng chứ không ai gọi là cờ tượng cả. Tướng cầm đầu thì phải gọi là cờ tướng. Đó cũng là nét hay của ngôn ngữ Việt, dễ gần gũi, dễ hiểu. Khi cờ vua du nhập vào Trung Quốc, họ gọi nó bằng cái tên rất dài là "Quốc tế tượng kỳ" (cờ voi thế giới) và cho đến nay họ vẫn gọi như vậy, trong khi người Việt chỉ gọi một tên ngắn gọn lại là cờ vua.

Nguyên tắc chơi

Bài chi tiết: Luật cờ tướng
Ở Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là cờ tướng chứ không ai gọi là cờ tượng cả. Tướng cầm đầu thì phải gọi là cờ tướng. Đó cũng là nét hay của ngôn ngữ Việt, dễ gần gũi, dễ hiểu. Khi cờ vua du nhập vào Trung Quốc, họ gọi nó bằng cái tên rất dài là "Quốc tế tượng kỳ" (cờ voi thế giới) và cho đến nay họ vẫn gọi như vậy, trong khi người Việt chỉ gọi một tên ngắn gọn lại là cờ vua.

Các quân cờ

Tướng


Tướng (hay Soái)
Ở Trung Hoa, vua là thiên tử (con trời), do vậy, nếu nhắc tới vua thì phải tôn kính, sùng bái. Bất cứ một hành động, một câu nói nào hớ hênh đối với vua đều bị ghép vào tội "khi quân" và bị xử trảm. Có quân vua trên bàn cờ Saturanga là bình thường, nhưng sang tới Trung Hoa thì không thể được. Các quan lại trong triều đình không thể cam lòng nhìn đám dân quê cứ réo lên tên vua ầm chiếu, rượt đuổi, khi đã hãm được thành thì lại cầm một quân, có khi chỉ là một quân tốt quèn, đạp lên đầu vua đánh chát, rồi hét lên "giết!" một cách hả hê. Biết đâu lại chẳng có kẻ lợi dụng trò chơi này để bày tỏ sự bất phục của mình với vương triều. Các nhà cải cách đã cải tên từ "vua" thành "tướng" hay "soái" cho quân này, với lời giải thích: Tướng hay soái là chỉ huy cao nhất, quan trọng nhất; bên nào giết được tướng hay soái thì hiển nhiên thừa thắng trận, đâu cần tới lượt vua. Cách cải cách tên này đã giải thoát một trong những vấn đề tế nhị và phức tạp nhất về mặt ý thức hệ, và chỉ có như thế trò chơi Saturanga mới được chấp nhận. Tuy nhiên, đó chỉ là cách thay đổi tên, thay đổi bề ngoài, hình thức mà thôi, chứ quân cờ này thực chất vẫn là vua. Vì tướng thì phải xông pha trận mạc, không thể ru rú trong cung, có hai Tượng và Sỹ kè kè bên cạnh bảo vệ. Cách đổi tên chỉ là một mẹo vặt để giữ sỹ diện cho vua mà thôi.
Tướng được chốt chặt trong cung và có tới 2 Sỹ và Tượng canh gác hai bên. Khi lâm nguy, tất cả sẵn sàng xả thân "hộ giá". Chính điều này làm cho quân địch dù có liều chết lăn xả vào cũng không chắc đã thắng được. Như thế muốn thắng một ván cờ cũng rất khó khăn, cơ may hoà cờ là rất lớn. Từ một thực tế như vậy, luật "lộ mặt Tướng" được thiết lập: một bên Tướng đã chiếm được một lộ rồi mà Tướng bên kia thò mặt ra lộ ấy là bị thua ngay lập tức, dù hai Tướng ở cách xa nhau muôn trùng. Chính điều này làm cho sự việc trở nên rất khó giải thích bởi cả Saturanga cũng như cờ vua đều không có tuyệt chiêu này. Thực ra đây chỉ là một quy định đơn thuần mang tính kỹ thuật nhằm cứu vãn cho sự ỳ ạch của cờ tướng, cho sự quá kín mít của Cửu cung. Việc Tướng chiếm lộ thông chính là việc phong luôn cho Tướng vai trò kép "Xa và Tướng". Xe là quân cực mạnh, do đó chiến thắng sẽ dễ dàng hơn.
Do có luật "lộ mặt Tướng" nên sẽ có hệ quả: Tướng bên này mặc nhiên chiếm luôn một phần ba diện tích Cửu cung của đối phương, khiến đất nương thân của đối phương bị thu hẹp đáng kể. Đó là chưa nói nếu Tướng chiếm được lộ giữa thì Tướng của đối phương mất tới hai phần ba cung cấm của mình, nghỉa là chỉ còn vỏn vẹn có 3 điểm dể di chuyển. Lúc đó đối phương chỉ còn 1 quân cũng có thể tóm gọn được dù rằng đang ở ngay trong cung cấm của mình. Trong khi cờ tướng khi Tướng mất hết đường chạy thì thua chứ không hoà như trong cờ vua. Vì vậy, tỷ số thắng thua ở cờ tướng sau khi có ngoại lệ này đã tăng vọt, chấm dứt tình trạng hoà cờ trì trệ như từ trước đến nay.
Tướng chỉ được đi ngang hay đi dọc từng bước một trong phạm vi cung tướng.Tính theo khả năng chiến đấu thì Tướng là quân yếu nhất do chỉ đi nước một và bị giới hạn trong cung. Tuy nhiên trong nhiều tình huống, đặc biệt khi cờ tàn đòn "lộ mặt tướng" lại tỏ ra rất hiểm và mạnh. Lúc này Tướng mạnh ngang với Xa.


Sỹ
Trong cờ vua, quân cố vấn được đổi thành quân Hoàng hậu, nhưng ở Trung Hoa, phụ nữ không được tham gia chính sự nên không thể có mặt bên cạnh vua trong bàn cờ được. Trong cờ tướng, quân Sỹ có vai trò "hộ giá" cho Tướng (hoặc Soái). Chúng đứng ngay sát cạnh Tướng, chỉ đi từng bước một và đi theo đường chéo trong Cửu cung. Như vậy, chúng chỉ di chuyển và đứng tại 5 điểm và được coi là quân cờ yếu nhất vì bị hạn chế nước đi. Sỹ có chức năng trong việc bảo vệ Tướng, mất Sỹ được cho là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Xe hoặc dùng Xe Mã Tốt tấn công. Bỏ Pháo ăn Sỹ rồi dùng 2 Xe tấn công là đòn chiến thuật thường thấy.
Trong tàn cuộc, Sỹ thường được đưa lên cao để làm ngòi cho Pháo tấn công.

Tượng (Tịnh, Bồ)


Tượng/ Tịnh
Quân Tượng đứng bên cạnh quân Sỹ và tương đương với Tượng trong cờ vua. Quân này đi theo đường chéo của hình vuông gồm 2 ô cờ. Chúng không được qua sông, chúng có nhiệm vụ ở lại bên này sông để bảo vệ vua. Chỉ có 7 điểm mà Tượng có thể di chuyển tới và đứng ở đó.
Tượng sẽ không di chuyển được đến vị trí đã nêu nếu có 1 quân đặt tại vị trí giữa của hình vuông 2 ô. Khi đó ta gọi là Tượng bị cản và vị trí cản được gọi là "mắt Tượng".
Tượng được tính là mạnh hơn Sĩ một chút. Khả năng phòng thủ của Tượng cũng được tính nhỉnh hơn. Nói chung mất Tượng cờ dễ nguy hơn mất Sĩ.

Xa (Xe)


Xe
Quân Xe đi và ăn theo một đường thẳng đứng hoặc ngang giống hệt quân Xe trong cờ vua. Chúng bắt đầu nước đi từ phía góc của bàn cờ, chúng được coi là quân cờ mạnh nhất trong cờ tướng.

Pháo


Pháo
Quân Pháo đi giống quân Xe, theo chiều thẳng đứng hoặc ngang, nhưng ăn quân bằng cách nhảy qua 1 quân cờ khác. Hãy tưởng tượng Cửu cung với thành cao hào sâu, có lực lượng bảo vệ canh gác ngày đêm, Tướng thì chẳng bao giờ ra khỏi cung, lấy cách gì mà đột phá vào đây. Xe tuy thông suốt như thế nhưng nếu có quân đứng chặn đường thì cũng phải dừng lại. Nhưng với Pháo thì bất chấp tất cả. Pháo có thể kéo tới tận góc mà nã đạn cầu vồng vào trong cấm cung tiêu diệt Tướng. Pháo có thể kéo hẳn về cung mình dùng chính Sỹ cuả mình làm ngòi để chiếu hết tướng đối phương. Quân Pháo có quyền lực mạnh ở lúc bắt đầu, lúc bàn cờ còn nhiều quân, nhưng quyền lực đó giảm dần về sau. Trên thực tế thì có tới 70% khai cuộc là dùng Pháo. Đơn giản và thô lỗ nhất là nã ngay Pháo tiêu diệt Mã đối phương (người chơi như thế gọi là hiếu sát). Còn thông thường là hai bên cùng kéo pháo vào lộ giữa, gọi là đương đầu Pháo. Kéo Pháo cùng bên gọi là trận Thuận Pháo, kéo Pháo vào ngược bên nhau gọi là trận Nghịch Pháo (hay Liệt Pháo).
Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến tranh với hình thức là một loại máy dùng để bắn những viên đá to. Bấy giờ, từ Pháo trong chữ Hán được viết với bộ "thạch", nghĩa là đá. Cho đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì quân Pháo đã được viết lại với bộ "hỏa".
Kể từ khi xuất hiện Pháo, bàn cờ tướng trở nên cực kỳ sôi động, khói lửa mịt mù từ đầu tới cuối trận với biết bao nhiêu đòn Pháo vô cùng hiểm hóc. Chính cặp Pháo này đã nâng cờ tướng lên một tầm cao hoàn toàn mới, khiến cho cờ tướng trở nên cực kỳ độc đáo, tách rời bỏ hoàn toàn bóng dáng của trò Saturanga. Người châu Âu, châu Mỹ cũng có Pháo nhưng họ không nghĩ tới và không đưa được Pháo vào bàn cờ, muốn có được nó thì phải thay đổi hoàn toàn cấu trúc của bàn cờ. Nếu cờ vua vẫn để nguyên 64 ô đen trắng thì Pháo đặt vào đâu được. Đặt vào có khi lại bị vào trường hợp "quân mình bắn quân ta". Có thể nói pháo là quân cờ lợi hại nhất trong cờ tướng.


Với bàn cờ được cải tiến như hiện nay, đất rộng và có vô số đường để tung hoành, Mã sẽ phi nước đại trên khắp bàn cờ. Sự thái quá của Mã như thế sẽ làm cho việc tiêu diệt quân trở nên quá nhanh, công mạnh hơn thủ, và nhất là Tướng sẽ bị uy hiếp nặng nề nếu hai Mã đối phương sang được trận địa bên này. Mã trong cờ vua không bị luật cản bởi bàn cờ vua chật hẹp, các Tốt của cờ vua móc xích nhau cản trở rất lớn nên việc tung hoành của Mã so với bàn cờ tướng là khó khăn hơn nhiều. Nếu không có ngoại lệ để giảm bớt đà của Mã trong bàn cờ tướng thì các đòn đánh thâm hậu dễ bị phá sản và vai trò của các quân sẽ bị mất cân đối. Từ khi có luật cản Mã, cờ trở nên ôn hoà, sâu sắc và mưu mẹo phải cao hơn, nghệ thuật dùng quân để "cản Mã" cũng tinh vi hơn, khiến cho Mã dù đã "ngọa tào" hay "song Mã ẩm tuyền" cũng không dễ gì bắt được Tướng đối phương nếu bất ngờ bị một quân khác chèn vào "chân". Những đòn nhằm vào tướng như thế nếu ở cờ vua thì vua hết đường cựa nhưng ở cờ tướng thì vua hoàn toàn có thể rút Xe hoặc Pháo từ trận địa xa phía bên kia về để cứu nguy nhờ phép cản Mã tài tình. Nếu ở Pháo có nguyên tắc mà không người chơi cờ nào không thuộc là "cờ tàn Pháo hoàn" với vai trò hỗ trợ Pháo của Sỹ là vô cùng quan trọng thì đối với Mã ở cờ tàn là việc tích cực ào lên tấn công. Khi đó những nước chống đỡ của đối phương phụ thuộc rất nhiều vào vị trí làm thế nào để cản được chân Mã hơn là làm thế nào để tiêu diệt được Mã, bởi bàn cờ lúc này rất trống trải, Mã tha hồ tung hoành. Quân mã đại diện cho đơn vị lính kị binh, đó là sự mô phỏng hình tượng kị binh cầm giáo phi đại đâm xiên kẻ thù. Chính vì bắt buộc phải dùng tốc độ thì sát thương mới cao nên để hạn chế kị binh hay bắt chết mã chỉ có cách là chèn chân tương ứng với "cản mã" như ở trên. Đó là sự tinh tế thâm thúy của người Trung Hoa so với phương Tây dù rằng việc sử dụng kị binh phương tây nắm rất rõ

Tốt (Binh, Chốt)


Tốt (hoặc Binh)
Binh pháp của Trung Hoa không giống như của Ấn Độ. Trên nền tảng quân sự của mình, người Trung Hoa đã sáng tạo ra cách bày quân như sau: Thứ nhất, lính tráng phải ra nơi biên ải để giữ gìn đất nước. Như vậy, sát với sông, người ta cắt cử 5 quân Tốt cách đều nhau để giữ tuyến đầu. Hình tượng 5 con tốt tượng trưng cho đơn vị quân đội nhỏ nhất ngày xưa là 1 đội gồm 5 người lính, họ sử dụng 5 loại binh khí khác nhau. Trận chiến bây giờ không nằm ở hai hàng dưới nữa mà đã được đẩy lên rất cao phía trên. Việc các quân Tốt chỉ có số lượng như vậy đã tránh được chuyện "bịt đường" như ở cờ vua, tạo sẵn ra 4 đường mở cho các quân bên dưới có thể năng động xông lên, thậm chí tấn công được ngay chứ không bị bó chân ngay từ đầu như ở cờ vua. Cách bố trí 5 quân Tốt này là phương án tối ưu cho cấu trúc của bàn cờ, vì nếu là 4 hay 6 thì khó đặt ở bàn cờ cho cân đối. Quân Tốt ở đây tương tự như quân Tốt ở cờ vua, chúng đi thẳng theo chiều đứng và có thể ăn quân từng bước một. Khi Tốt qua được sông, chúng có thể đi và ăn theo chiều ngang. Không giống như trong cờ vua, chúng không có luật phong Hậu, hay Xe,... khi đi đến hết bàn cờ, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng không thành một "thảm họa" như trong cờ vua.

Cách ghi nước đi

Trong các thế cờ, để ghi lại vị trí và sự dịch chuyển quân cờ, người ta thường ghi lại các nước đi như sau:
  • Dấu chấm (.) là tiến
  • Dấu gạch ngang (–) là đi ngang (bình)
  • Dấu gạch chéo (/) là lùi (thoái)
Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí và sự dịch chuyển quân cờ. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo 2 bình 5, bên Đen mã 8 tiến 7 thì ghi:
  1. P2-5 M8.7
Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo ở cột 8 lùi 1 bước, Đen đưa Tốt cột 7 lên một bước.
  1. P8/1 B7.1
Nếu Pháo (hay Mã, Xa) nằm trên một đường thì ghi Pt là Pháo trước, Ps là Pháo sau.
Nếu có 3 Tốt nằm trên cùng một cột thì ký hiệu Bt (Binh trước), Bg (Binh giữa), Bs (Binh sau).

Các giai đoạn của một ván cờ

Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn: khai cuộc, trung cuộctàn cuộc.

Khai cuộc

Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên. Các nghiên cứu mới cho biết khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng của một ván cờ. Khai cuộc có thể đóng góp đến 40% trong khi trung cuộc và tàn cuộc đóng góp 30% mỗi giai đoạn. Có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, nhưng nói chung, có 2 loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc không Pháo đầu.

Khai cuộc Trung Pháo

Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính:
  • Thuận Pháo
  • Nghịch Pháo (Liệt Pháo)
  • Bán đồ Liệt Pháo
  • Pháo đầu đối Bình phong Mã
  • Pháo đầu đối Phản cung Mã
  • Pháo đầu đối Đơn đề Mã
  • Pháo đầu đối Phi Tượng
  • Pháo đầu đối Uyên ương Pháo
  • Pháo đầu đối Quy bối Pháo

Khai cuộc không Trung Pháo

  • Tiến Tốt (Tiên nhân chỉ lộ)
  • Khởi Mã cuộc
  • Phi Tượng cuộc
  • Quá cung Pháo
  • Sĩ Giác Pháo
  • Quá cung Liễm Pháo

Trung cuộc

Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:
  • Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân.
  • Nội kích: đánh từ phía trong.
  • Kích thẳng vào Tướng.
  • Chiếu tướng bắt quân.
  • Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó.
  • Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi, đường rút của đối phương.
  • Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương.
  • Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt.
  • Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương.
  • Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân.
  • Bao vây.
  • Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu.
  • Vu hồi: đánh vòng từ phía sau.
  • Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát.
  • Quấy nhiễu.
  • Nước lơ lửng: đi một "nước vô thưởng vô phạt" để nhường nước cho đối phương, khiến đối phương phải đi một nước "tự sát".
  • Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí.
  • Vừa đỡ vừa chiếu lại.
  • Vừa đỡ vừa trả đòn.

Tàn cuộc

Tàn cuộc là giai đoạn tổng số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công (Xe, Pháo, Mã, Tốt) cả hai bên còn rất ít.
  • Xe chống Sĩ Tượng toàn
  • Xe Tốt chống Sĩ Tượng toàn
  • Mã Tốt chống Sĩ Tượng toàn
  • Đơn Mã chống Tướng
  • Đơn Tốt bắt Tướng
  • Đơn Mã thắng Tướng
  • Đơn Xe thắng song Tượng
  • Xe và Tốt lụt thắng đơn Xe
  • Đơn Xe thắng đơn Tướng
  • Tốt chống Tướng
  • Tam tử quy biên

Chơi cờ tướng đòi hỏi điều gì?

Khác với cờ vua, cờ tướng đòi hỏi người chơi phải có tư duy chiến thuật, chiến lược tốt mới có thể giành thắng lợi [cần dẫn nguồn]. Trong khi đối với cờ vua, khả năng nhớ của người chơi đóng góp nhiều hơn trong việc thủ thắng.
Trong cớ tướng khả năng đi ít hơn trong cờ vua. Lý do: bộ Tướng, Sĩ, Tượng không có nhiều khả năng đi, chỉ đi trong ô vuông cho trước. Con Tốt cũng không thể biến thành con khác, con Mã lại bị cản. Trong cờ vua thì không có những ràng buộc này. Vì vậy cờ vua biến hóa phức tạp hơn, đòi hỏi người chơi trí nhớ thật tốt.

Các hình thức chơi cờ tướng khác

Cờ thế

Bài chi tiết: Cờ thế
Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng được sau một số nước đi được yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian.

Cờ bỏi

Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ tướng, nhưng quân cờ là những thẻ gỗ sơn son thếp vàng, có cán dài chừng 1 m, tên quân cờ được viết ở hai mặt, cắm vào các ô đã định sẵn trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân cờ để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người có thể cùng xem được.

Cờ người

Bài chi tiết: Cờ người
Tập tin:Cờ người.jpg
Đoàn "Cờ người" trước khi bước vào trận đấu. Người đứng đầu tiên là Tướng Bà, sau đó là 1 quân Tốt, tiếp theo là 2 quân Sỹ...
Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa.
Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng trống, đàn, phách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng, chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn, cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở "cắc...tom tom". Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm. Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân.
Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương có bài thơ vinh cuộc cờ người:
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thủy không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

Cờ tưởng (Cờ mù)

Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ thật. Kiểu chơi này thường đòi hỏi người chơi phải có trình độ cao, nhớ được các nước đi, thế cờ hiện tại. Quốc tế đại sư Liễu Đại Hoa của Trung Quốc hiện đang giữ kỷ lục thế giới về cờ tưởng.

Cờ một thế trận

Cờ một thế trận là trong ván cờ, chỉ được chơi một thế trận như: Thuận Pháo,... Các ván cờ thường khởi đầu với những chiêu thức cũ, nhưng sau đó là rất nhiều phương án khác đa dạng độc đáo, biến hoá kỳ ảo. Giải cờ này hay được tổ chức tại Trung Quốc.

Cờ chấp

  • Chấp quân: Quân bị chấp sẽ được bỏ ra ngoài bàn cờ ngay từ đầu. Thường là chấp Xe, Pháo, 2 Mã và 1 Mã.
  • Chấp nước đi: Người được chấp sẽ được đi một vài nước trước, rồi mới đến lượt người chấp. Quân đi trước sẽ không được ăn quân hoặc qua sông. Thường là chấp 1-2-3 nước đi trước. Từ chuyên dùng gọi là chấp 1-2-3 tiên.
Trên thực tế có thể phối hợp cả 2 loại chấp trên, như chấp Mã và đi trước 2 nước (Mã 2 tiên).

Cờ úp

Được chơi nhiều gần đây ở Việt Nam. Các quân cờ trừ tướng được che khuất bằng cách dùng một cái nắp nhựa úp lên. Kiểu chơi này đòi hỏi người chơi phải nhớ quân tốt hơn. Một biến thể nữa là xáo trộn các quân và đặt chúng ở vị trí ngẫu nhiên nhưng có lẽ kiểu chơi này đã đi quá xa và không nên coi là cờ tướng. Một số biến thể khác nửa bao gồm Cờ Rồng, Cờ Xáo Trộn và Cờ Úp... có thể được tham khảo và chơi trực tuyến tại trang Cờ Tướng Trực Tuyến VietSon

Cờ Tam quốc

Bài chi tiết: Cờ Tam quốc

Thành ngữ trong cờ tướng


Chơi cờ tướng trên phố ở Trung Quốc
  • Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách.
  • Cờ tàn, Pháo hoàn.
  • Khuyết Sỹ kỵ song Xa.
  • Khuyết Tượng kỵ Pháo.
  • Khuyết Sĩ kỵ Mã.
  • Nhất Sỹ chòi góc, cóc sợ Mã công.
  • Tốt nhập cung Tướng khốn cùng.
  • Mã nhập cung Tướng khốn cùng (hay Mã nhập cung Tướng lùng bùng).
  • Xe mười Pháo bảy Mã ba.
  • Nhất Xe sát vạn.
  • Cờ bí dí Tốt.
  • Nhất chiếu nhất cách (đi một nước khác sau mỗi lần chiếu, cầu hòa)
  • Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công.
  • Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực (một Tốt sang sông có sức mạnh bằng nửa Xe).
  • Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc.
  • Pháo đầu, Mã đội, xe lên hà.
  • Pháo giáp Mã
  • Mất xe không bằng què Tượng
  • Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy...
  • Hạ thủ bất hoàn.

Các câu đối và thơ về cờ tướng


Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấn
So Cầm Thi Họa thêm bàn Cờ nữa mới thanh cao.

Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệt
Bình xa, Hoành xa chiến lược cao xa.




...Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tấn công
......
Lạc nước hai Xe đành bỏ phí
Gặp thời một Tốt cũng thành công....
.....
Tấn công phòng thủ không sơ hở
Đại tướng anh hùng mới xứng danh
(Trích bài "Học đánh cờ" trong tập "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh)

Thắt lưng hoa lý mắt câu huyền
Sỹ Tượng gươm trần gác mỗi bên
Em làm bà Tướng lòng anh đó
Anh nguyện xin làm phận Tốt đen.
(Bài "Hội cờ người" của N.V.C)

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
(Thơ Hồ Xuân Hương)
mã cầm cô sĩ
Quan kỳ bất ngữ chân quân tử
Tiến thủ vô hồi đại trượng phu

Các nhà vô địch cờ tướng Việt Nam

Kỷ lục cờ tướng

  • Chơi cờ tưởng: Ngày 25 tháng 2 năm 1995, Đại kỳ sư Trung Quốc Liễu Đại Hoa đã bịt mắt, đánh cờ tưởng (tức là đánh cờ tướng nhưng không cần nhìn bàn cờ) với 19 kỳ thủ có đẳng cấp. Kết quả, sau 7 giờ 20 phút, ông đã thắng 9, hoà 8 và chỉ thua 2 ván.
  • Chơi cờ đồng loạt: Ngày 30 tháng 5 năm 1996, Từ Thiên Hồng, danh thủ cờ tướng Trung Quốc, một mình đấu cùng lúc với 100 đối thủ. Cuộc đấu cờ dài 9 giờ 28 phút với kết quả: ông thắng 83 ván, hoà 16 ván và thua 1 ván.

Các giai thoại về cờ tướng

Read more